Đội hình xuất sắc nhất mọi thời đại của Champions League (Kỳ 1)

19:21 Thứ hai 27/04/2015

(TinTheThao.com.vn) - UEFA Champions League là giải đấu danh giá bậc nhất cựu lục địa ở cấp CLB, trong suốt chiều dài giải đấu này từng có rất nhiều đội bóng đi đến bến bờ vinh quang, và để làm nên những thành công ấy chắc chắn là có phần đóng góp không nhỏ của những cầu thủ ngôi sao của họ. Vậy nên hôm nay chúng ta hãy cùng điểm lại đội hình xuất sắc nhất giải đấu này xếp theo sơ đồ 4-4-2, được tính trong kỷ nguyên Champions League, nghĩa là kể từ khi giải đấu được đổi tên từ mùa giải 1992/93.

1. Iker Casillas

Casillas có thể nói là học viên ưu tú nhất lò đào tạo trẻ Castilla của Real Madrid, ở tuổi 16 lần đầu tiên Iker được gọi lên đội hình 1 trong trận đối mặt với Rosenborg tại Champions League, nhưng ở trận đấu ấy anh đã không có cơ hội được ra sân, cho đến mùa giải 1998/1999, mùa giải anh ra mắt ở đội 1 và làm thủ môn dự bị cho Bodo Illgner. Đến mùa tiếp theo với phong độ xuất sắc của mình, anh đẩy Illgner lên băng ghế dự bị và trở thành sự lựa chọn số một trong khung gỗ Real.

Casillas nổi tiếng làng túc cầu nhờ những phản xạ xuất thần trước khung gỗ, sự ổn định dài lâu, cùng những năm tháng bền bỉ cống hiến cho Real và đội tuyển Tây Ban Nha. Casillas được nhiều người biết đến như một trong những thủ môn xuất sắc nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá thế giới cũng như bóng đá đương đại hiện nay. “Thánh Iker” là những gì mà người ta thường gọi về Casillas, qua đó quá đủ để cho thấy sự vĩ đại của anh là như thế nào.

Tính đến thời điểm hiện tại anh là cầu thủ có số lần ra sân nhiều nhất ở Champions League với 148 lần. Anh có 3 lần vô địch giải đấu này. Sau đây là một số thành tích đáng chú ý trong sự nghiệp của Casillas:

Cùng Real Madrid

Siêu Cup Tây Ban Nha (4 lần): 2001, 2003, 2008, 2012.

Cup C1 (3 lần): 1999-2000, 2001-02, 2013-14

Siêu cúp bóng đá châu Âu (2 lần): 2002, 2014

Cúp bóng đá liên lục địa (1 lần): 2002. FIFA Club World Cup (1 lần) 2014

Vô địch Tây Ban Nha (5 lần): 2000/01; 2002/03; 2006/07; 2007/08; 2011/12

Cúp Nhà Vua (2 lần): 2010/11; 2013/14

Cá nhân

Đội hình tiêu biểu của UEFA (1): 2008

Đội hình tiêu biểu của năm do Hiệp hội các cầu thủ chuyên nghiệp quốc tế (FIFPro) bình chọn (2): 2007-08, 2008-09

Thủ môn xuất sắc nhất thế giới do Hiệp hội các cầu thủ chuyên nghiệp quốc tế (FIFPro) bình chọn (2): 2007-08, 2008-09

Đội hình tiêu biểu của năm FIFA bình chọn (1): 2008-09

2. Carles Puyol

Năm 17 tuổi Puyol bắt đấu gia nhập lò đào tạo trẻ của Barca La Masia. Mùa giải 1999/00 lần đầu tiên anh được thi đấu ở đội hình chính thức của đội 1 Barca, khi đó được huấn luyện bởi Louis Van Gaal. Puyol là mẫu cầu thủ chơi rắn, quyết liệt, tinh thần lăn xả mỗi khi được ra sân nhưng vô cùng chắc chắn hiệu quả.

Anh có thể chơi đa năng bất cứ nơi nào trong hàng hậu vệ, xuất phát điểm của anh là hậu vệ cánh phải, sau đó Puyol được thử nghiệm chơi ở vị trí trung vệ, dù có chiều cao 1m78 không quá tốt với cầu thủ đá trung tâm hàng hậu vệ nhưng “chàng lùn” này lại cho thấy tầm vóc đôi khi cũng không quá quan trọng trong bóng đá. Về sau người ta biết đến anh là trung vệ hàng đầu thế giới lừng danh một thời.

Puyol được đánh giá như một trong những trung vệ xuất sắc nhất thế giới trong vòng 1 thập niên qua, Carles Puyol đã có trên 100 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha và trải qua 10 năm giữ vai trò thủ quân Barcelona.

Sau Xavi, thì Carles Puyol là cầu thủ có số lần ra sân nhiều nhất ở Champions League của Barcelona với con số 115. Cầu thủ sinh năm 1978 này có 3 chức vô địch giải đấu này cùng đội bóng của mình. Toàn bộ sự nghiệp của mình Puyol chỉ dành cho mỗi mình Barca, anh giải nghệ vào mùa Hè 2014 ở tuổi 37. Sau đây là một số thành đáng chú ý trong sự nghiệp của Carles Puyol:

Cùng Barcelona

La Liga (6 lần): 2004/05, 2005/06, 2008/09, 2009/10, 2010/11, 2012/13

Cúp Nhà vua Tây Ban Nha (2): 2008–09,2011–12

Siêu cúp Tây Ban Nha (6): 2005, 2006, 2009, 2010, 2011, 2013

UEFA Champions League (3): 2005–06, 2008–09, 2010-11

Siêu cúp châu Âu (2): 2009, 2011

Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ (2): 2009,2011

3. Paolo Maldini

Maldini gia nhập AC Milan từ năm 8 tuổi. Ngay lập tức, anh đã chứng minh được tài năng của mình và được các HLV tin tưởng thường xuyên ở đội trẻ của Milan giai đoạn 1977-1984. Trận đấu đầu tiên của Maldini tại Serie A là vào ngày 20 tháng 1 năm 1985 đấu với Udinese, khi anh chưa tròn 17 tuổi. Kể từ đó về sau Maldini luôn là một trong những công thần giúp Milan một thời thống trị bóng đá châu Âu.

Nói tới Paolo Maldini, người ta nói tới một hậu vệ có lối chơi cần mẫn nhưng vô cùng hiệu quả và cũng rất hoa mỹ. Maldini khởi nghiệp là một hậu vệ cánh trái, Ở những năm cuối sự nghiệp, anh thi đấu ở vị trí trung vệ. Dù ở bất kì vị trí nào, Maldini cũng chứng minh rằng anh là một trong những hậu vệ tài năng nhất của lịch sử bóng đá thế giới.

Trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình anh chỉ chơi cho một câu lạc bộ duy nhất đó là AC Milan, từ một cầu thủ trẻ tiềm năng năm 1984 cho đến khi trở thành huyền thoại năm 2009. Anh có số lần khoác áo nhiều nhất lịch sử CLB với 902 trận.

25 năm cống hiến cho bóng đá, mặc dù là một mẫu cầu thủ hào hoa, một ngôi sao nổi tiếng, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của anh không một scandal ồn ào, không một tì vết trong cuộc sống. Những gì người ta biết về anh là sự cần mẫn trong bóng đá, sự nỗ lực trong công việc và chăm sóc cho gia đình. Nhiều người tin rằng Maldini là cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá thế giới chưa từng đoạt Quả bóng Vàng.

Ở Champions League, Maldini có 141 lần ra sân, anh có 3 lần lên ngôi vô địch giải đấu này. Sau đây là một số thành đáng chú ý trong sự nghiệp của Maldini cùng AC Milan:

Scudetto (Serie A) Vô địch (7 lần): 1988, 1992, 1993, 1994, 1996, 1999, 2004.

Cúp quốc gia Italia (Coppa Italia) Vô địch (1): 2003.

Siêu cúp Italia (Supercoppa Italiana) Vô địch (5): 1988, 1992, 1993, 1994, 2004.

Cúp C1 (European Cup/UEFA Champions League) Vô địch (5): 1989, 1990, 1994, 2003, 2007.

Siêu cúp châu Âu (UEFA Super Cup) Vô địch (5): 1989, 1990, 1994, 2003, 2007.

Cúp liên lục địa (Intercontinental Cup) Vô địch (2): 1989, 1990.

Cúp vô địch thế giới các câu lạc bộ (FIFA Club World Cup) Vô địch (1): 2007.

4. Marcel Desailly

Cùng với Maldini thì huyền thoại người Pháp Desailly là một trong những hậu vệ hay nhất bóng đá thế giới một thời. Ông khởi nghiệp và chơi trong màu áo Nantes từ năm 1986 đến 1992. Sau đó cầu thủ gốc Ghana từng kinh qua rất nhiều đội bóng lớn ở châu Âu như Marseille, AC Milan, Chelsea, nơi nào Desailly thi đấu ông cũng là nhân vật chủ chốt trong hàng phòng ngự của đội bóng ấy.

Chỉ duy nhất một mùa ông chơi cho Marseille, cầu thủ sinh năm 1968 đã giúp đội bóng thành phố cảng nước Pháp giành được Champions League mùa 1992/93. Mùa bóng sau đó anh chuyển sang Milan và tiếp tục là hòn đá tảng nơi hàng phòng ngự đưa Rossoneri lên ngôi cao nhất ở giải đấu này.

Khoác áo Chelsea từ 1998-2004 ra sân 222 trận, ghi 6 bàn thắng. Ở Chelsea Desailly là một hậu vệ xuất sắc nhất thời điểm đó, ông cùng với 2 hậu vệ đồng hương khác gồm Leboeuf và Gallas tạo thành hàng phòng ngự số 1 Premiership lúc bấy giờ. Tháng 4/2003, Desailly được góp mặt trong đội hình tiêu biểu 10 năm đầu của giải Ngoại hạng Anh.

Desailly có hơn chục năm gắn bó với tuyển Pháp, ra sân 116 trận ghi 3 bàn thắng. Desailly từng tham dự World Cup 1998, 2002 và Euro 2000, 2004. Đặc biệt cựu cầu thủ của AC Milan, Chelsea từng cùng các đồng đội lên ngôi vô địch World Cup 1998 và EURO 2000.

Trong sự nghiệp của mình Desailly có 75 lần ra sân ở Champions League và 2 lần lên ngôi cao nhất giải đấu này. Sau đây là một số thành đáng chú ý trong sự nghiệp của Desailly:

Marseille

UEFA Champions League: 1992–1993

AC Milan

Serie A (2 lần): 1993/94, 1995–96
UEFA Champions League: 1993–94
Siêu cúp Italian (2): 1994, 1996
Siêu cúp Châu Âu (2): 1993, 1994

Chelsea

UEFA Super Cup: 1998
FA Cup: 1999–2000
FA Charity Shield: 2000

5. Roberto Carlos

Carlos xứng đáng được vinh danh là hậu vệ cánh trái số 1 thế giới, anh là mẫu cầu thủ toàn diện cả về tấn công lẫn phòng ngự. Khác với đa số những ngôi sao Samba cùng thế hệ, Roberto Carlos không phải là một nghệ sĩ sân cỏ, anh là lực sĩ. Ngày ấy trên thế giới không có nhiều cầu thủ có thể vượt qua tầm kiểm soát của Carlos, hành lang cánh trái chính là “đất diễn” của cầu thủ sinh năm 1973 này.

Anh có thể phong toả những đợt tấn công của đối phương bằng khả năng đọc tình huống tuyệt vời, cộng với tốc độ và sự càn lướt khủng khiếp của mình, khi cần Carlos cũng có thể lao lên nhanh như tia chớp để hỗ trợ tấn công. “Cho đối phương xem số áo” đó là cách dễ dàng nhất để mô tả tốc độ kinh hoàng của Carlos, nhìn chung anh là một cầu thủ “xưa nay hiếm” của bóng đá thế giới.

Điều mà NHM nhớ về Carlos ngoại trừ tốc độ khủng khiếp của một VĐV điền kinh còn là những pha “nã rocket” như tia lửa điện của anh. Nhanh, mạnh và nhất là quỹ đạo bay khó lường của quả bóng khiến không một ai có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy tiếp theo khi bóng xuất phát từ chân anh, ngay cả chính anh.

Nhìn chung những bàn thắng của Carlos có thể nói là không tưởng. Dù anh chưa chắc là người giỏi nhất nhưng tất cả NHM bóng đá đều phải công nhận rằng Roberto Carlos là hậu vệ trái xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại.

Carlos có 120 lần ra sân ở đấu trường danh giá nhất châu Âu cấp CLB. Anh từng cùng Real 3 lần đăng quang chức vô địch Champions League vào những năm 1998, 2000 và 2002. Sau đây là một số thành đáng chú ý trong sự nghiệp của huyền thoại sinh năm 1973 này:

Cùng Real Madrid

La Liga: 1996-97, 2000-01, 2002-03, 2006-07

Spanish Super Cup: 1997, 2001, 2003

UEFA Champions League: 1997-98, 1999-00, 2001-02

European Super Cup: 2002

Intercontinental Cup: 1998, 2002

Vệ Anh Tiến | 00:00 30/11/-0001
Chia sẻ
Loading...

Bài viết mới Bài cùng chuyên mục